Suy thận mạn (STM) ở trẻ em dễ dẫn đến suy thận giai đoạn cuối và chỉ có phương pháp điều trị thay thế thận là ghép thận và lọc máu mới giúp trẻ duy trì sự sống. Hai phương pháp này tương đối tốn kém không phải gia đình nào cũng có thể điều trị cho con em mình. Tuy nhiên, nếu các bậc cha mẹ chú ý một số vấn đề trong chăm sóc sức khỏe cho trẻ sẽ giúp trẻ tránh được căn bệnh nguy hiểm này.
Viêm bể thận gây suy thận mạn ở trẻ em.
Các nguyên nhân dẫn đến STM ở trẻ em
Viêm cầu thận dẫn đến STM ở trẻ em chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó đáng lưu ý là nguyên nhân viêm cầu thận liên quan đến nhiễm khuẩn (viêm cầu thận cấp). Bệnh thường gặp ở trẻ em sau viêm họng hoặc viêm da. Các nghiên cứu ở nước ta cho thấy có 5 – 10% bệnh nhi, bệnh tiếp tục tiến triển mạn tính và gây suy thận sau 10 năm bị viêm cầu thận cấp. Có 80% trẻ bị viêm cầu thận cấp xảy ra sau viêm họng hoặc viêm da do liên cầu khuẩn, số còn lại do các vi khuẩn khác. Độ tuổi thường gặp là 6-9, bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung nhiều vào các tháng 9 – 12. Nghiên cứu sinh thiết thận ở trẻ viêm cầu thận cấp sau 10 – 15 năm cho thấy có tới 70% trường hợp có tổn thương xơ cứng cầu thận từng phần hoặc hoàn toàn, trong đó 30 – 40% có biểu hiện triệu chứng lâm sàng.
Viêm bể thận/viêm thận kẽ đứng hàng thứ hai, trong đó tắc nghẽn đường dẫn niệu chiếm 6,2%, thường do hẹp khúc nối bể thận – niệu quản bẩm sinh. Có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận và điều trị bằng phẫu thuật. Bệnh thận do trào ngược nước tiểu từ bàng quang lên niệu quản mỗi lần rặn tiểu chiếm 6,9%. Có thể phát hiện sớm bệnh này bởi triệu chứng trẻ thấy đau tức vùng hố thắt lưng mỗi lần rặn tiểu. Nếu trẻ có triệu chứng trên thì cần chụp bàng quang có bơm thuốc cản quang kết hợp rặn tiểu để xác định. Hình ảnh Xquang sẽ cho thấy nước tiểu trào ngược từ bàng quang lên niệu quản. Bệnh lý này là do khuyết tật ở van giữa niệu đạo và bàng quang, có thể điều trị phẫu thuật khuyết tật này.
Bệnh thận bẩm sinh gặp 16,2% số trẻ STM, trong đó bệnh thận nang chiếm 1,9% có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận. Hội chứng Alport chiếm 1,5%, đây là hội chứng bệnh lý có tính chất gia đình, bệnh biểu hiện bằng suy thận và 50% bệnh nhi có kèm theo điếc. Ngoài ra có thể gặp các bệnh thận bẩm sinh khác như Cystinosis, Oxalosis.
Theo số liệu của Hội Lọc máu và ghép thận châu Âu (EDTA) thì tỷ lệ trẻ em STM thay đổi từ 1 trẻ / 1 triệu dân (ở Hy Lạp) đến 11 trẻ / 1 triệu dân (ở Israel). Ở nước ta chưa có số liệu STM ở trẻ em, nhưng tỷ lệ STM giai đoạn cuối chung cho cả trẻ em và người lớn là 0,06 – 0,08% dân số.
Các bệnh hệ thống gặp 7% số trẻ STM, trong đó viêm thành mạch dị ứng (Henoch – Schonlein – pupura) chiếm 2,4%. Bệnh biểu hiện bằng từng đợt xuất huyết dưới da thể chấm, chủ yếu ở hai chân, đối xứng, có thể kèm theo đau sưng các khớp, có protein niệu, có thể điều trị lui bệnh bằng các thuốc corticoid. Hội chứng tan máu – urê máu chiếm 3,1% biểu hiện bằng vàng da, bilirubin máu tăng, thiếu máu, urê máu tăng.
Hạn chế STM trẻ em bằng cách nào?
Khi đã bị STM thì bệnh sẽ tiến triển dần đến suy thận giai đoạn cuối. Lúc này để duy trì cuộc sống của bệnh nhân phải điều trị thay thế thận bằng lọc máu hoặc ghép thận, đây là các kỹ thuật cao hết sức tốn kém. Các phương pháp điều trị bảo tồn STM chỉ có vai trò kéo dài thời gian ổn định chức năng thận và làm chậm tiến triển của suy thận đến giai đoạn cuối. Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em như vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, phòng và điều trị sớm các nhiễm khuẩn ở họng hoặc da và các nhiễm khuẩn khác, phát hiện sớm các bệnh thận bẩm sinh như hẹp khúc nối bể thận niệu quản, trào ngược nước tiểu bàng quang lên niệu đạo, bệnh thận đa nang để có biện pháp điều trị sớm, có thể làm giảm được tỉ lệ trẻ em bị STM.
(theo suckhoedoisong)
Read More »
Những bệnh dễ gây tổn thương thận
Posted by hien on July 4th, 2010 | Edit
Nhiều nghiên cứu cho thấy thận có thể bị tổn thương do các bệnh toàn thân như đái tháo đường (ĐTĐ), thoái hóa dạng tinh bột, đa u tủy xương, gút… Vì vậy cần phát hiện và điều trị sớm các bệnh này mới ngăn chặn được các bệnh về thận nhất là nguy cơ suy thận.
Thận hư do bệnh ĐTĐ
Bệnh ĐTĐ gây nguy cơ chủ yếu là bị hội chứng thận hư (HCTH ). Tổn thương chủ yếu là xơ hóa cầu thận lan tỏa, xơ hóa cầu thận dạng nốt (các nốt Kimmelstiel-Wilson) là đặc trưng của bệnh lý này. Kích thước thận tăng do phì đại và tăng sinh tế bào. Ở giai đoạn đầu, bệnh gây tăng mức lọc cầu thận, khi bệnh tiến triển đến protein niệu rõ rệt, chức năng cầu thận lại trở về bình thường rồi suy giảm. Vì vậy bệnh nhân cần thường xuyên xét nghiệm để phát hiện protein niệu kín đáo bằng định lượng protein niệu 24 giờ hoặc tỷ lệ albumin/creatinin trong nước tiểu buổi sáng. Bình thường tỷ lệ A/C dưới 3,5, nếu vượt quá 10 là bất thường, còn trung gian thì cần theo dõi tiếp. Bệnh thận sẽ xuất hiện sau 10 – 15 năm bị ĐTĐ và có protein niệu rõ rệt 3 – 7 năm tiếp theo. Bệnh nhân cần điều trị tích cực trước khi xuất hiện protein niệu. Kiểm soát đường huyết và chống tăng huyết áp sẽ ngăn chặn sự tiến triển tổn thương thận ở bệnh nhân ĐTĐ. Một số nghiên cứu cho thấy các thuốc ức chế men chuyển có tác dụng làm chậm tiến triển tới protein niệu rõ rệt ở bệnh nhân ĐTĐ, do thuốc làm giảm áp lực trong cầu thận và giảm huyết áp. Trái lại, khi đã bị protein niệu rõ thì việc khống chế đường huyết và hạ huyết áp không còn tác dụng hạn chế thận hư.