Viêm đại tràng có thể cấp và thể mạn tính. Tuy tổn thương giải phẫu bệnh học ở tiểu tràng và đại tràng khác nhau nhưng trên lâm sàng, sự phân biệt viêm tiểu tràng với viêm đại tràng có thể dễ trong thể kiết lị nhưng lại rất khó trong các thể ỉa chảy.
Viêm cấp tính thường do nhiễm độc vi khuẩn hoặc kí sinh trùng. Hiện nay các phương tiện thông hút dịch tràng, nhất là phương pháp lọc vi khuẩn, virut từ các dịch đó, những hiểu biết về sinh lý học, sinh lý bệnh học của tiểu tràng, đại tràng và quần thể vi khuẩn thường trú đã giúp ích rất nhiều trong điều trị.
Trong viêm mạn tính, khá nhiều trường hợp không phải là viêm thực sự mà chỉ là rối loạn chức năng. Y học đã tách ra nhiều bệnh riêng biệt trong các thể mạn tính, nhờ các phát minh về thăm dò, tiến bộ trong kĩ thuật chụp tiểu tràng, chụp đại tràng cản quang kép, nhất là nội soi đại tràng có sinh thiết, nhờ những hiểu biết về vi khuẩn học và miễn dịch học cùng những xét nghiệm miễn dịch học.
Ngoài ra còn có các bệnh đại tràng do điều trị cũng gây những tổn thương thực thể và bệnh cảnh lâm sàng giống viêm đại tràng.
Các thể viêm cấp tính, các bệnh thuộc loại viêm mạn tính và các bệnh đại tràng do trị liệu đều có một bệnh cảnh lâm sàng chung là “hội chứng Viêm đại tràng” mà qua các biểu hiện lâm sàng, nhất là cận lâm sàng
Viêm cấp: có thể do các vi khuẩn Escherichia coli, Vibrio cholerae, Salmonella, Shigella, Yersinia, …, so virut, do kí sinh trùng lị amip.
Viêm mạn: Ngoài các rối loạn chức năng đại tràng không mang tổn thươn thực thể khá phổ biến ở các nước, trong các thể Viêm đại tràng có thực tổn cần chú ý các bệnh sau: Lị amip mãn tính phổ biến ở Việt Nam và các nước nhiệt đới, lao ruột giảm nhiều từ khi có nhiều loại kháng sinh chống lao và dùng liệu pháp đa kháng sinh
Viêm đại tràng cấp tính: Phần lớn các bệnh Viêm đại tràng cấp tính đều do nhiễm khuẩn đường tiêu hóa qua miệng. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn, virut hoặc amip, các bệnh này có một bệnh cảnh lâm sàng chung, ỉa chảy cấp tính có hoặc không có hiện tượng kiệt nước và điện giải hoặc một hội chứng lị.
Biểu hiện lâm sàng: Tùy cơ chế nhiễm độc tố hoặc cơ chế xâm nhập của quá trình nhiễm khuẩn mà các Viêm đại tràng câos tính thể hiện bằng ỉa chảy hoặc bằng hội chứng lị. Cả 2 cơ chế này cũng có thể xảy ra cùng một lúc do một tác nhân gây bệnh.
Ỉa chảy xảy ra đột ngột, phân toàn nước, có thể ỉa liên tục do cơ tròn hậu môn mất tác dụng, có thể mất 3-4 lít nước/ngày phân thường giống như nước gạo, không có máu, mủ hoặc chất nhầy. Đó là do cơ chế nhiễm độc tố như trong bệnh tả, lị
Hội chứng lị: Đại tiện rất nhiều lần, mỗi lần chỉ có rất ít hoặc không có phân, nổi bật nhát là cơn đau mót rặn đau quặn từng cơn dọc theo khung đại tràng, nhất là vùng xích ma – trực tràng, đồng thời có phản ứng mót rặn khiến người bệnh phải đi ngay. Sau đó dù có phân hay không có cơn đau tuy bớt nhưng chỉ một lúc sau lại tái diễn, có khi liên tục. Thường phân rất ít, lẫn với chất nhầy niêm dịch, mue nhầy,máu cầm và bọt hơi, thường lị do amip, do Shigella, do Salmonell, Campylobacter, Yersinia hoặc một vài giống Ếchrichia coli. Tác nhân gây bệnh gắn vào niêm mạc đại tràng, xâm nhập nhanh vào các tế bào biểu mô, sinh sôi nảy nở, phá hủy các tế bào, gây phản ứng viêm cùng với các ổ loét ở niêm mạc đặc trưng cho bệnh lí.
Viêm đại tràng mạn tính: có khi do nhiễm kí sinh trùng hoặc nhiễm khuẩn, có khi do mẫn cảm hoặc tự miễn có bệnh hiện nay vẫn chưa biết chắc chắn nguyên nhân dù đã biết rất rõ triệu chứng, diễn biến và tổn thương giải phẫu bệnh. Mặt khác , các rối loạn nước và điện giải ít xảy ra nhưng thay vào đó là hội chứng kém hấp thụ, thường có trong các bệnh mà tổn thương ở ruột non là chủ yếu. Dưới đây là những bện Viêm đại tràng mạn tính.
Lị amip mạn tính: biểu hiện dưới 2 hình thái rối lạo đại tiện có thể là một hội chứng lị hoặc ỉa chảy tái phát nhiều lần hoặc xen kẽ lị, ỉa chảy, táo bón, kèm theo các rối loạn tiêu hóa khác như trong thể cấp tính, khám thấy một đoạn đại tràng xơ cứng, phần nhiều ở xích ma gọi là những thừng đại tràng hay thừng thừng xích ma, soi trực tràng trong các đợt tái phát có thể thấy các tổn thương loét như trong thể cấp tính. U hố chậu phải u amip ít gặp hơn hình thái trên, đó là mộ u hình thoi, trục nằm theo đại tràng lên, di động dưới thành bụng và trên nền sâu, hơi chắc và không đau. Việc xác định nguyên nhân amip của các u này thường rất khó, chủ yếu phải loại trừ thể u của lao hồi – mang tràng và ung thư đại tràng bằng chụp đại tràng cản quang kép, nội soi đại tràng vf đại tràng nên có sinh thiết, điều trị thừ như một amip nếu không có phương tiện thăm dò.
Triệu chứng: Cơ năng cũng như biểu hiện của một bệnh viêm ruột đau bụng ỉa chảy hoặc một hội chứng lị. Thực thể đau khi sờ nắn vào bụng, có thể có một đám quánh hơi đau hoặc một khối có ranh giới rõ rệt ở hố chậu phải rất dễ nhầm với một đám quáng ruột thừa. Có thể có các tổn thương ở hậu môn và ngoài ống tiêu hóa. Hẹp ruột khu trú ở đoạn bị bệnh cùng với đoạn trên bị giãn phù nề niêm mạc với những ổ loét, những hình ảnh giả polip và hình đường lát đá.
Viêm loét đại tràng chảy máu: còn gọi là loét đại tràng. Triệu chứng cơ năng, đau bụng có tính chất đau quặn, triệu chứng gợi ý là ỉa ra máu bầm có khi lẫn mủ. Thực thể rất nghèo nàn có khi chỉ ấn đau dọc khung đại – trự tràng , nhất là vùng xích ma và thăm trực tràng hơi đau, có máu bầm. Triệu chứng toàn thân rầm rộ, nhất là trong các thể nặng: sốt, sút cân, thiếu máu. Có thể có biểu hiện bệnh ngoài ống tiêu hóa, viêm khớp hoặc đau khớp, hồng ban nút, loét miệng lưỡi – gan thoái hóa mỡ, viêm quanh ống mật, thận thoái hóa dạng tinh bột.